Bẵng đi vài hôm, Tuệ Minh đã nhẹ nghĩ hơn nhiều. Hiểu Lâm từ lúc về nhà, thỉnh thoảng lại mang Tôn nhị công tử ra trêu ghẹo Tuệ Minh, khiến cho cậu nổi điên rượt hắn từ sân trước ra đến vườn sau. Sau nhiều ngày “nhập gia” thì cuối cùng Tuệ Minh cũng đã “tùy tục”, hôm nay dường như là lần đầu tiên mà Tuệ Minh dậy trước lúc mặt trời gọi.
Đi từ gốc cây sau vườn vào, Tuệ Minh thấy Từ phu nhân đang cầm giỏ bước ra cổng, cậu lớn tiếng hỏi:
– Từ phu nhân, người đi chợ sao? Để ta cùng đi với người.
Từ phu nhân hơi bất ngờ, nhưng cũng tươi cười đáp:
– Hôm nay dậy sớm như thế, còn muốn đi chợ cùng ta, Tuệ Minh thật tốt.
Hai người vừa đi ra cửa, Tuệ Minh vừa đáp:
– Ta tự dậy còn tốt hơn đến trưa Hiểu Lâm lại ra mắng ta là heo!
Từ phu nhân cười xòa, thong thả cùng Tuệ Minh rảo bước đến chợ phiên. Đã thật lâu rồi Tuệ Minh mới có dịp cùng bà đi chợ sớm thế này. Con đường, từng gốc cây, ngọn cỏ vẫn âm u trong sương sớm, nhưng Tuệ Minh đã chẳng còn sợ hãi như lần đầu trông thấy.
Người ta thường hay đồn đoán không hay về làng Ấn Sát và những con người bên trong, bởi họ chẳng thể trông thấy được điều gì trong đám sương mờ, nên họ luôn cho rằng nơi này chỉ toàn nguy hiểm và chết chóc.
Tuệ Minh, bằng một cách bất đắc dĩ, đã phải sống trong làng sương ấy, được nó che chở, và nhờ vậy biết rằng nơi chết chóc trong miệng thiên hạ cũng ấp ủ tình người.
Chợ vẫn rôm rả, mấy hàng rau thịt có vẻ đã thêm một vài. Từ phu nhân vẫn như thói quen ghé ngang mấy sạp hàng quen thuộc, cuối cùng dừng lại bên hàng thịt của Đại Bá, hắn chắc phải vui lắm khi có một vị khách trung thành như Từ phu nhân. Vừa gặp bà từ xa tiến đến, hắn đã chào hỏi rôm rốp:
– Từ phu nhân, người đến sớm thật tốt! Ta có chừa thịt cho người đây, tất cả còn lại đều bán hết rồi. Nghe nói Từ công tử vừa về đúng không? Chuyển lời nói ta hỏi thăm cậu ấy nhé!
Từ phu nhân ngơ ngác, trông vào sạp thịt còn đúng một vài cân của Đại Bá, hỏi:
– Đại Bá, đa tạ ngươi, ta sẽ nói với Hiểu Lâm. Hôm nay ngươi bán đắt hàng vậy sao, ta vừa đến đã hết?
Đại Bá cười rất tươi:
– Ta vừa dọn hàng ra đã hết rồi ấy chứ! Ngay cả mấy sạp thịt quanh đây cũng đã hết từ sớm, ta chỉ đợi bà đến nữa là có thể dọn gánh về rồi!
– Hôm nay là ngày gì mà người ta tranh nhau mua thịt vậy? – Từ phu nhân nói bâng quơ.
Đại Bá lại rất từ tốn mà đáp:
– Ầy, ngươi không biết sao, hôm nay là hôn lễ của con trai Lữ gia đó. Nghe nói họ đãi tiệc linh đình lắm, bao nhiêu thịt ở đây đều bị họ mua sạch rồi! Mà cũng đáng, nghe nói cô dâu là người đẹp nhất làng này, có chiêu đãi bằng này cũng không lạ.
Tuệ Minh đứng cạnh tim đập mạnh một nhịp, đúng rồi, chính là hôm nay, Xuân Linh sẽ bị gả về nhà Lữ Nhạt. Từ giây phút đó, tâm trạng cậu chùn xuống hẳn. Chợt mặt trời đằng xa bắt đầu ló dạng, những ngày này mặt trời lên sớm vô cùng.
Đại Bá gói thịt đưa Từ phu nhân, gấp gáp dọn hàng, lòng phấn khởi nói:
– Mặt trời lên rồi, ta về đây. Nhà trai chắc là sang rước dâu rồi, ái chà. Từ phu nhân, hôm sau lại gặp nhé!
Đại Bá thật nhanh quẩy gánh đi xa trước khi ánh nắng chạm đến hắn. Chợ phiên cũng tan, ai về nhà nấy. Trên đường về, Tuệ Minh không kìm được tò mò mà hỏi:
– Từ phu nhân, sớm như thế này đã rước dâu rồi sao?
Từ phu nhân giải thích:
– Tục lệ của làng chúng ta, lễ rước dâu phải được tiến hành ngay lúc mặt trời lên. Giống như mặt trời xua tan sương mù, người ta mong rằng cô dâu về nhà chồng cũng như mặt trời mọc, xua đuổi điều xấu, mang đến điều tốt.
Tuệ Minh không nói gì, thở dài ra một hơi, lửng thửng đi đằng sau Từ phu nhân. Từ phu nhân dĩ nhiên cảm nhận được có điều gì không đúng, liền hỏi:
– Tuệ Minh, có chuyện gì? Cậu không khỏe sao?
Tuệ Minh lắc đầu:
– Không có, chỉ là…
Tuệ Minh còn chưa nói hết, liền loáng thoáng nghe được trong màn sương sớm chưa tan hết, một giọng ai đó kêu la đến thất thanh.
– Cứu ta, cứu ta với…
Giọng kêu yếu ớt, ngắt quãng như thể vừa chạy vừa cầu cứu. Hơn nữa còn là một giọng nữ, Từ phu nhân lập tức đanh mặt lại, quay sang nói với Tuệ Minh:
– Tuệ Minh, cậu ở đây, ta đi xem tình hình.
Dứt lời, Từ phu nhân đã lướt đi thoăn thoắt, Tuệ Minh chỉ có thể vừa chạy theo vừa gọi í ới đằng sau. Từ phu nhân đến nơi, thấy một cô gái mặc y phục chu sắc, đầu đội mão tân nương đã ngã bên gốc cây. Bà từ tốn hỏi:
– Cô nương, cô từ đâu đến, tại sao lại thế này?
Cô gái ngước mặt lên, đôi dòng nước mắt vẫn còn lăn dài trên má, đôi mắt sau lớp mặt nạ chu tước đỏ hoe:
– Từ phu nhân, ta là Lã Xuân Linh…
Từ phu nhân lập tức hiểu ra, một tân nương chắc chắn sẽ không vô duyên vô cớ chạy đến nơi này, huống hồ Lã gia ở cách xa nơi này hàng trăm dặm. Bà đỡ cô đứng dậy, hỏi:
– Hôm nay là đại hôn của cô, cả làng đều biết, cô lúc này đáng ra phải ở…
Xuân Linh lắc đầu, nói trong nước mắt:
– Phu nhân, ta thà chết cũng không muốn lấy Lữ Nhạt, không muốn…
Lời nói chưa dứt đã có một giọng khác truyền đến:
– Có chết cũng phải lấy!
Xuân Linh run rẩy nắm tay Từ phu nhân, đó là giọng của cha cô – Lã Thành Hinh. Sáng nay nhà trai đã đến từ sớm, nhưng lúc mặt trời lên lại phát hiện ra cô dâu biến mất. Xuân Linh nhân lúc người nhà không để ý, đã đánh ngất nô tì hầu cận rồi trốn ra khỏi đám cưới, chạy về hướng này, chạy đến kiệt sức. Lã Thành Hinh xuất hiện ngay trước mắt, Từ phu nhân vẫn đứng đó, Xuân Linh chạy ra nấp phía sau bà.
Lã Thành Hinh liếc mắt sang Từ phu nhân:
– Từ phu nhân, phiền người tránh ra, ta phải đưa con gái ta về lấy chồng.
Từ phu nhân không nhúc nhích, bản thân là một người mẹ, Xuân Linh lại đáng tuổi con bà, nhìn cô gái nấp sau lưng mình cầu cứu, bà thật không nỡ dửng dưng bỏ mặc. Bà nói:
– Lã tướng quân, con gái người đã nói thà chết cũng không lấy, người không cân nhắc chút sao?
Lã Thành Hinh cười khẩy:
– Từ phu nhân, bà là đang muốn nhắc nhở ta, hay muốn cản đường ta? Ta thấy bà tốt hơn là đừng nên, lo mà dạy cho tốt hai đứa con không có cha của bà đi!
Từ phu nhân vốn đã không muốn khẩu chiến, nhưng bị Lã Thành Hinh cố tình công kích, bà nhẹ nhàng đáp:
– Thà không có cha, vẫn tốt hơn có một người cha không ra gì.
Lã Thành Hinh bị một câu này đánh vào điểm chí tử, người cha cả con gái mình cũng muốn gả đi trừ nợ thì có đáng làm cha hay không? Ông ta làm giọng hùng hổ:
– Từ thị, bà đừng có không biết điều, nếu bà mà gây sự với ta thì đừng trách ta không nương tay!
Từ phu nhân vẫn đứng yên như không có gì uy hiếp, bà rằng:
– Ta từ nảy đến giờ chỉ đứng im, kẻ đến đây gây sự có lẽ là ngài thì đúng hơn.
Lã Thành Hinh nghiến răng nói một tiếng “Được!”, sau đó lập tức dàn trận phi tiêu. Trận phi tiêu là trận trứ danh của gã, chỉ cần bị trúng đòn, thân thể lập tức bị cắt thành trăm mảnh. Xuân Linh thấy tình hình không ổn, không khéo lại liên lụy Từ phu nhân, liền nói:
– Cha, xin cha dừng tay, tiểu nữ bất hiếu, xin chịu mọi hình phạt, xin cha để Từ phu nhân rời đi.
Từ phu nhân công lực tuy cao cường, nhưng đối đầu với đại sát thủ của làng thì rõ là khó cho bà. Đã vậy, bà càng không ngờ Lã Thành Hinh lập tức dùng trận phi tiêu mà đối đầu với bà. Lã Thành Hinh Dù nghe tiếng con gái cầu xin, vẫn mặc nhiên xem như không có chuyện gì, cười khinh bỉ:
– Quá trễ! Ai cản đường ta đều phải chết!
Trận đã giăng xong, Từ phu nhân vẫn đứng yên nơi đó. Chỉ cần Lã Thành Hinh phát lệnh, phi tiêu trận sẽ cắt kẻ trong trận đến chết. Hắn lớn tiếng:
– Xuân Linh, nhanh ra ngoài.
Xuân Linh kiên quyết:
– Nếu cha đồng ý để Từ phu nhân an toàn.
Lã Thành Hinh nổi giận:
– Ngươi còn dám mặc cả với ta?
Xuân Linh vẫn một lời không đổi:
– Nếu cha không để Từ phu nhân đi, cha cứ việc xuống tay, con sẽ không đi đâu cả.
Lã Thành Hinh bắt ấn, triển thuật:
– Ấn Sát kỳ thuật: Tử tiêu phi trận!
Lã Thành Hinh chấp nhận từ bỏ đứa con gái này, Lữ Nhạt nếu có đòi nợ, thì giết cả nhà hắn là xong. Lã Thành Hinh ngang tàn, vốn cũng chẳng xem ai ra gì. Chỉ là hắn đã giao kèo với Lữ Nhạt, nếu gả Xuân Linh về nhà họ Lã, cả đời Lã Thành Hinh sẽ không thiếu vinh hoa phú quý và cả mỹ nữ. Gả Xuân Linh gán nợ chỉ là cái cớ, câu chuyện đằng sau nếu kể ra thì chắc ai cũng rùng mình về một người cha táng tận lương tâm.
Khoảng không gian xung quanh xuất hiện vô số phi tiêu sắc lẻm, Lã Thành Hinh phất tay một cái, toàn bộ phi tiêu bay vun vút vào hai người phụ nữ ở giữa trận. Bỗng từ đâu có một bóng người lao đến như một cơn gió, Từ phu nhân mơ hồ nghe thấy tiếng niệm chú:
– Ấn Sát kỳ thuật: Hộ kiếm vũ!
Người kia lao vào giữa trận, múa kiếm tạo thành một lá chắn đánh bay tất cả phi tiêu ra ngoài. Cho đến cái phi tiêu cuối cùng, vẫn tuyệt nhiên không chạm được đến Từ phu nhân và Xuân Linh.
Lã Thành Hinh vừa nhìn đã biết là ai, chỉ có một kẻ có thể phá giải thuật này của hắn, kẻ này từng là một đôi song sát với hắn, chinh phạt mọi nẻo chiến trường. Lã Thành Hinh tức giận quát:
– Hồ Hán Sương, ngươi cũng muốn chỏ mũi vào chuyện của ta?
Hồ Hán Sương vắt kiếm ra sau lưng, đáp:
– Không, ta lâu ngày không động kiếm bỗng nhớ cảm giác chinh chiến ngày xưa, vận động xương cốt một chút.
Ngày xưa đó, Dạ Phong Thần, Hồ Hán Sương và Lã Thành Hinh tình thân như huynh đệ, hợp sức cùng nhau mở rộng làng để được như hôm nay. Họ đã sát cánh cùng nhau, thành ra cũng hiểu biết về nhau không ít. Cũng chỉ có ba người họ biết cách phá giải những ấn thuật mạnh nhất của nhau.
Lã Thành Hinh biết rằng có Hồ Hán Sương ở đây thì hắn chẳng thể làm gì được. Vừa lúc đó thì viện binh của hắn cũng vừa đến. Lữ Nhạt dẫn theo một đám binh lính trong phủ của hắn, đi mất một canh giờ cũng đuổi kịp đến đây. Lã Thành Hinh nói nhỏ vào tai hắn điều gì đó, hắn lập tức quay ra quát:
– Từ thị, mẹ con bà chính là nhắm vào ta đúng không?
Vừa lúc đó, một giọng nói khác lại góp vào:
– Chúng ta chẳng nhắm vào ai cả.
Hiểu Lâm gác rừng vừa về đến nhà, liền thấy Tuệ Minh xách giỏ chạy hớt ha hớt hãi bên ngoài vào. Tuệ Minh cố nói bằng giọng hụt hơi:
– Hiểu Lâm, có chuyện rồi. Từ phu nhân, từ phu nhân…
Hiểu Lâm không cần nghe hết, lập tức triển thuật đến chỗ mẹ hắn. Lữ Nhạt thấy Hiểu Lâm đến, cũng tỏ ra ba phần kiêng dè. Đám quân lính chờ chực xông lên cũng không dám, bọn chúng thừa biết sức lực của Hiểu Lâm ở mức nào, một kiếm vung ra cũng đủ lấy mạng tất cả bọn chúng.
Lữ Nhạt không chửi được, lại càng không đánh được, quay sang Lã Thành Hinh hạch sách:
– Lã Thành Hinh, ta cũng đã gọi ông một tiếng nhạc phụ, để ta xem ông dạy con gái thế nào?
Lã Thành Hinh dùng nhu không được, dùng cương không xong, quay sang cười hề hề với Lữ Nhạt:
– Không sao, ta vẫn còn một đứa con gái nữa, không có đứa này thì có đứa khác!
Xuân Linh hét trong nước mắt:
– Cha, tại sao cha có thể làm vậy?
Lã Thành Hinh nhìn Xuân Linh trừng trừng:
– Ngươi còn biết gọi ta là cha? Nếu ngay bây giờ ngươi không về, ta lập tức cắt đứt quan hệ cha con với ngươi!
Xuân Linh tuyệt vọng, cô không ngờ người cha mất tích mà gia đình cô bao ngày mong ngóng, cuối cùng vẫn chứng nào tật nấy, giờ đây chị em cô bị chính cha mình xem như những món hàng để đổi chác. Xuân Linh nuốt nỗi uất hờn vào sâu tận tâm can, rằng:
– Cha, con gái bất hiếu. Mong kiếp sau có thể trả món nợ sinh thành!
Lã Thành Hinh không ngờ con gái hắn bỏ trốn trong ngày thành hôn, lại càng không ngờ cả cha nó mà nó cũng dám từ. Nước đi này cuối cùng là không thể vãn hồi, ông ta triển thuật:
– Ấn Sát kỳ thuật: Tuyệt giao!
Lã Thành Hinh phất tay, một vòng tròn ấn chú màu đỏ bay đến trước mặt Xuân Linh. Là ấn thuật tuyệt giao. Chỉ có cha mẹ có quyền dùng ấn thuật này với con cái, nếu họ tuyệt giao, những ấn thuật mang tính huyết thống giữa họ sẽ không còn thi triển được nữa, đồng thời họ sẽ không can dự gì vào cuộc sống của nhau.
Nếu Xuân Linh dùng máu viết tên mình lên ấn thuật trước mặt, cô sẽ chính thức bị cha mình từ mặt. Điều đó cũng có nghĩa cô ở một mặt nào đó không còn là người làng Ấn Sát, bởi chỉ có kẻ đại nghịch bất đạo mới bị cha mẹ từ mặt, không có lý lẽ nào để có thể là người trong làng.
Xuân Linh nhìn Lã Thành Hinh, nước mắt cô đã khóc đến cạn, người cha này cuối cùng là không còn hi vọng gì. Cô đặt ngón tay lưỡi gươm của Hồ Hán Sương, vuốt nhẹ một cái, lưỡi gươm sắc bén cắt một vết sâu hoắm trên ngón tay thiếu nữ. Máu chảy ra đọng thành giọt long lanh trên đầu ngón.
Xuân Linh bắt đầu viết. Cô viết tên mình lên ấn chú. Từng nét chữ như từng nét dao cắt vào trái tim cô đau đớn. Cô chỉ mong, hành động này có thể khiến cha cô thức tỉnh, trở thành người cha yêu thương gia đình như những ngày cô còn bé.
Như một bản giao ước được ký xong, mặt nạ trên mặt Xuân Linh lập tức biến mất. Cô quỳ trên mặt đất, cúi đầu, khóc ra nỗi đau dày xéo tâm can. Lã Thành Hinh có chút bất ngờ, nhưng cũng lập tức quay người rời đi. Từ phu nhân an ủi Xuân Linh, cô ôm lấy bà mà khóc lớn. Từ phu nhân vỗ về lên đôi bờ vai mảnh mai, vuốt nhẹ làn tóc rối bời chưa kịp chải lại sau đoạn đường chạy trốn.
Từ phu nhân nhìn sang Hồ Hán Sương vẫn còn đứng đó, rằng:
– Hồ tướng quân, đa tạ ơn cứu mạng!
Lúc này, có một kẻ nấp sau gốc cây nhanh nhảu nhảy ra, không ai khác là Hán Nhân. Từ phu nhân bất ngờ, hỏi:
– Hồ công tử cũng ở đây sao?
Hán Nhân tươi cười chào Từ phu nhân, Hồ Hán Sương lại đáp:
– Từ phu nhân, bà không cần cảm tạ ta. Hôm nay ta đến chính là muốn nói lời cảm tạ Từ công tử đây.
Thì ra sau khi ông về làng, liền biết Hiểu Lâm đã có một chuyến đi sang làng Bán Nhưỡng. Hơn nữa, điều khiến ông nhận ra Hiểu Lâm cứu ông chính là vết cung Phục Ma trên người. Ông ra chiến trận từ thời trẻ, chạm trán cung Phục Ma không ít lần, vết tích của nó, ông không thể lầm vào đâu được. Hôm nay có nhã ý sang cảm tạ, cuối cùng lại có được dịp trả ơn.
Hai kẻ mất tích ở làng Bán Nhưỡng được cứu về. Trước đó họ đều là những nam nhân phóng túng, chẳng màn gia đình, không quan tâm con cái. Nhưng Hồ Hán Sương cảm thấy lần này ông được sống lại chính là ơn đức trời cho, ông phải sống cho xứng đáng. Còn Lã Thành Hinh cứ luôn miệng bảo rằng cuộc đời ngắn ngủi, trước mắt là nên tận hưởng khoái lạc, biết đâu mai này lại chẳng thể.
Cùng một hoàn cảnh, cùng trải qua một biến cố, cuối cùng mỗi người vẫn có một lối suy nghĩ khác nhau.
Hiểu Lâm cứu Hán Nhân một lần, lại cứu cha hắn một lần, nhà họ Hồ vì đó mà mang ơn nghĩa sâu nặng. Bao nhiêu lời khách sáo nói cũng không đủ.
Chợt Xuân Linh vì khóc đến kiệt sức, lại còn mất nhiều máu mà ngất xỉu. Từ phu nhân hốt hoảng, từ biệt hai cha con Hồ gia mà về nhà. Từ phu nhân và Hiểu Lâm, một già một trẻ, Hiểu Lâm dĩ nhiên là không để mẹ hắn bế Xuân Linh được. Nhưng không hiểu sao, khi vừa bế Xuân Linh trên tay, Hiểu Lâm liền cảm thấy một nỗi bất an trong lòng.